Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp tạo hứng thú và tăng tính tích cực cho học sinh trong việc học tập bộ môn Toán 8 ở trường THCS Pa Khóa - Sìn Hồ - Lai Châu

Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp tạo hứng thú và tăng tính tích cực cho học sinh trong việc học tập bộ môn Toán 8 ở trường THCS Pa Khóa - Sìn Hồ - Lai Châu

I. SỰ CẦN THIẾT

Toán học ngày càng có nhiều ứng dụng trong cuộc sống, những kiến thức và kĩ năng toán học cơ bản đã giúp con người giải quyết các vấn đề trong thực tế cuộc sống một cách có hệ thống và chính xác, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. Môn Toán ở trường phổ thông góp phần hình thành và phát triển các phẩm chất chủ yếu, năng lực chung và năng lực toán học cho học sinh; phát triển kiến thức, kĩ năng then chốt và tạo cơ hội để học sinh được trải nghiệm, vận dụng toán học vào thực tiễn; tạo lập sự kết nối giữa các ý tưởng toán học, giữa Toán học với thực tiễn, giữa Toán học với các môn học và hoạt động giáo dục khác.

Với xu thế chung của giáo dục hiện nay là đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát triển năng lực, phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh trong quá trình dạy và học. Nên trong năm học 2020-2021, khi được phân công dạy lớp 8, tôi luôn cố gắng để tìm ra những phương pháp, giải pháp dạy học vừa phù hợp với điều kiện của xã Pa Khóa một xã thuộc vùng 3, vừa đạt các mục tiêu nâng cao chất lượng dạy và học hiện nay.

 

docx 12 trang Phương Dung 02/06/2022 23261
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp tạo hứng thú và tăng tính tích cực cho học sinh trong việc học tập bộ môn Toán 8 ở trường THCS Pa Khóa - Sìn Hồ - Lai Châu", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 PHÒNG GD&ĐT
TRƯỜNG THCS PA KHÓA
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Pa Khóa, ngày 18 tháng 10 năm 2021
1. Họ và tên giáo viên: Nguyễn Thị Sáu
2. Trường: THCS Pa Khóa
3. Tên biện pháp: Biện pháp tạo hứng thú và tăng tính tích cực cho học sinh trong việc học tập bộ môn Toán lớp 8 ở trường THCS Pa Khóa - Sìn Hồ - Lai Châu.
4. Ngày bắt đầu áp dụng biện pháp: 1/10/2020
I. SỰ CẦN THIẾT 
Toán học ngày càng có nhiều ứng dụng trong cuộc sống, những kiến thức và kĩ năng toán học cơ bản đã giúp con người giải quyết các vấn đề trong thực tế cuộc sống một cách có hệ thống và chính xác, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. Môn Toán ở trường phổ thông góp phần hình thành và phát triển các phẩm chất chủ yếu, năng lực chung và năng lực toán học cho học sinh; phát triển kiến thức, kĩ năng then chốt và tạo cơ hội để học sinh được trải nghiệm, vận dụng toán học vào thực tiễn; tạo lập sự kết nối giữa các ý tưởng toán học, giữa Toán học với thực tiễn, giữa Toán học với các môn học và hoạt động giáo dục khác.
Với xu thế chung của giáo dục hiện nay là đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát triển năng lực, phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh trong quá trình dạy và học. Nên trong năm học 2020-2021, khi được phân công dạy lớp 8, tôi luôn cố gắng để tìm ra những phương pháp, giải pháp dạy học vừa phù hợp với điều kiện của xã Pa Khóa một xã thuộc vùng 3, vừa đạt các mục tiêu nâng cao chất lượng dạy và học hiện nay.
Từ thực tế cho thấy, một bộ phận không nhỏ học sinh chưa có ý thức học tập, chưa có sự hứng thú, chưa có được những niềm vui trong học tập bộ môn toán, chưa có phương pháp học tập đúng đắn phù hợp, dẫn đến kết quả học tập chưa cao và đặc biệt là các em chưa biết cách tự học môn Toán. Dẫn đến số học sinh yếu môn Toán chiếm tỷ lệ cao so với các môn học khác. Các em cảm thấy chán nản khi học môn này bởi nhiều lý do khác nhau. Đây là vấn đề mà hầu như các giáo viên giảng dạy môn Toán đều quan tâm và trăn trở.
Yêu cầu đặt ra với giáo viên giảng dạy bộ môn Toán là phải làm thế nào, phải tổ chức hướng dẫn học sinh học tập ra sao để tạo cho học sinh có sự hứng thú, yêu thích học tập bộ môn Toán và đặc biệt là phát huy được tính tích cực cho các em học sinh trong quá trình học tập môn Toán, nhất là với đối tượng học sinh yếu kém, giúp các em yêu thích và đạt được kết quả cao hơn. 
Với mong muốn nâng cao chất lượng dạy học môn Toán ở trường trung học cơ sở Pa Khóa nói chung và môn Toán lớp 8 nói riêng và qua thực tế dạy học tôi đã tìm tòi, áp dụng một số biện pháp đem lại thành công. Vì vậy tôi chọn “ Biện pháp tạo hứng thú và tăng tính tích cực cho học sinh trong việc học tập bộ môn Toán 8 ở trường THCS Pa Khóa - Sìn Hồ - Lai Châu”.
II. THỰC TRẠNG 
 1. Mô tả vấn đề đã lựa chọn
a. Về phía giáo viên 
Giáo viên chủ yếu là người truyền thụ tri thức; học sinh lắng nghe, tham gia và thực hiện các yêu cầu tiếp thu tri thức được quy định sẵn. Khá nhiều GV sử dụng các PPDH truyền thống (thuyết trình, hướng dẫn thực hành, trực quan ). Việc sử dụng PPDH theo định hướng của GV là chủ yếu.
Giáo viên đã có đổi mới phương pháp dạy học môn Toán nhưng chưa đi vào thực chất và chưa có chiều sâu, chưa triệt để chỉ mới dừng lại ở việc cải tiến phương pháp dạy học truyền thống. Mục tiêu học để thi được ưu tiên.
b. Về phía học sinh
Nhiều học sinh còn thờ ơ với môn học, không hứng thú với bộ môn, số học sinh yêu thích, ham tìm hiểu kiến thức môn Toán còn hạn chế. 
Phần lớn các em hổng kiến thức rất nhiều, yếu các kiến thức cơ bản cần thiết (cộng, trừ, nhân, chia).
Tâm lý e ngại môn Toán là môn học khó dẫn đến tư tưởng lười học lười suy nghĩ thiếu tự tin.
Khả năng phân tích tổng hợp tư duy còn hạn chế nhiều học sinh không vận dụng được kiến thức vào giải bài tập .
c. Về phía phụ huynh học sinh
 Chưa thật sự quan tâm chăm lo và đôn đốc con em mình học tập, còn phó thác cho thầy cô.
d. Kết quả kiểm tra khảo sát chất lượng và khảo sát mức độ hứng thú của học sinh đối với môn Toán lớp 8 đầu năm học 2020-2021
Số liệu khảo sát chất lượng đầu năm học 2020-2021
Tổng số HS
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Số HS
%
Số HS
%
Số HS
%
Số HS
%
44
2
4,5%
7
15,9%
26
59,1%
9
20,5%
Số liệu khảo sát mức độ hứng thú của học sinh đối với môn Toán 8 đầu năm học 2020-2021
Tổng số HS
Mức độ hứng thú với môn Toán
Rất hứng thú
Hứng thú
Bình thường
Không hứng thú
Số HS
%
Số HS
%
Số HS
%
Số HS
%
44
3
6,8%
8
18,2%
23
52,3%
10
22,7%
2. Ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân
	a. Ưu điểm
 Nội dung giảng dạy theo tính truyền thống và có sự logic cao.
Giáo viên có thể trình bày một nội dung lý thuyết khó và phức tạp.
Cho phép giáo viên trình bày mô hình mẫu của tư duy logic với cách trình bày và lý giải vấn đề khoa học hơn.
Hình thành một tư tưởng và tình cảm tốt đẹp với niềm tin thông qua ngôn ngữ và cách mà giáo viên giảng dạy.
Giúp học sinh có thể nắm bắt được đầy đủ các thông tin về đối tượng nghiên cứu dựa trên cơ sở huy động nhiều kiến thức khác nhau. Từ đó sẽ phát triển được tư duy một cách trừu tượng và hình thành khái niệm về đối tượng rõ ràng nhất.
b. Nhược điểm
Học sinh dễ tiếp thu kiến thức một cách thụ động, giờ học cũng buồn tẻ và kiến thức chỉ thiên về lý thuyết.
Ít phát triển tư duy một cách độc lập và sáng tạo.
Bởi vì không có nhiều cơ hội thực hành, nên học sinh khó có thể áp dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn.
c. Nguyên nhân
 Giáo viên chưa tìm được phương pháp giảng dạy phù hợp đối với đối tượng học sinh bị hổng kiến thức. Chưa mạnh dạn đổi mới phương pháp dạy học 
Học sinh chưa tự giác học, chưa có động cơ học tập, chưa tích cực phát biểu, không có sự phấn đấu vươn lên, có thói quen chờ đợi, lười suy nghĩ, còn ỷ lại trông chờ và giáo viên, bạn bè hoặc xem lời giải sẵn trong sách giải một cách thụ động. 
Với những hạn chế, nguyên nhân như vậy cho nên nhưng năm học trước đây khi chưa áp dụng những phương pháp dạy học tích cực thì số lượng học sinh hứng thú và tích cực học tập bộ môn Toán của các lớp còn chưa cao, nên chất lượng dạy và học chưa cao.
Do đó tôi đã mạnh dạn thay đổi và áp dụng các phương pháp dạy học theo hướng mới tích cực hơn để có thể cuốn hút được các em học sinh và giúp các em tiếp thu được kiến thức một cách chủ động hơn. 
III. BIỆN PHÁP 
Biện pháp tạo hứng thú và tăng tính tích cực cho học sinh trong việc học tập bộ môn Toán lớp 8 ở trường THCS Pa Khóa - Sìn Hồ - Lai Châu.
* Nội dung biện pháp:
Theo phương hướng đổi mới phương pháp dạy học, giáo viên phải là người tổ chức, điều khiển học sinh phát huy tính tích cực chủ động trong lĩnh hội tri thức Toán, lấy học sinh làm trung tâm, học sinh là chủ thể của nhận thức. Điều đó đòi hỏi học sinh phải có hứng thú trong học tập từ đó mới tích cực tự học tự rèn luyện và có được các năng lực cần thiết trong học tập cũng như trong lao động sản xuất.
Với mục tiêu đó, trong các tiết dạy học tôi đã sử dụng các phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực làm cho các tiết học trở nên sôi nổi và sinh động hơn. Học sinh sáng tạo và nhiệt tình hơn trong quá trình học. Do đó, tạo động cơ, hứng thú học tập cho học sinh, giúp học sinh tiếp thu và khắc sâu kiến thức một cách chủ động hơn.
Có thể lồng ghép các bài học vào các hoạt động thực tế: Việc dạy học thông qua các hoạt động thực tế sẽ giúp học sinh tiếp nhận kiến thức nhanh hơn. Qua đó, giáo viên không cần phải giảng dạy chi tiết, áp đặt các kiến thức cho học sinh.
Phối hợp gữa học nhóm và tự học: Học sinh vừa phải tham gia các hoạt động học nhóm để tăng khả năng giao tiếp, tính chủ động, tính tự giác và tạo nguồn động lực học tập khi học nhóm. Đồng thời, học sinh cũng cần có những buổi tự học để tập hợp kiến thức, tập chung suy nghĩ.
 * Cách thức tiến hành:
- Đối với việc chuẩn bị bài trước khi đến lớp:
 Trong việc học tập bộ môn Toán 8. Tình trạng học sinh bị hổng kiến thức rất nhiều dẫn đến việc học tập nội dung tiếp theo không đạt hiệu quả cao. Do đó giáo viên cần yêu cầu học sinh về nhà đọc trước bài mới, xem lại kiến thức cũ liên quan đến nội dung bài mới.Trong tiết học sau giáo viên kiểm tra bài cũ bằng cách yêu cầu học sinh nêu các đề mục của bài học mới hoặc liệt kê các kiến thức cũ liên quan đã được giao về nhà tìm lại. Giáo viên đánh giá, cho điểm khuyến khích những học sinh về nhà có ý thức xem lại bài. Nếu cả lớp không có ai nhắc lại được kiến thức cũ giáo viên có thể dành ra vài phút để củng cố lại kiến thức cũ cho học sinh và yêu cầu học sinh tiếp tục về nhà xem lại. Tiết học mà học sinh về nhà không xem lại kiến thức cũ theo yêu cầu của giáo viên cần được đánh giá xếp loại từ trung bình trở xuống.
Ví dụ: Để chuẩn bị cho bài “Tính chất cơ bản của phân thức”. GV yêu cầu HS về nhà xem lại bài tính chất cơ bản của phân số đã học ở lớp 6. Trước khi vào bài GV tổ chức hoạt động như sau:
+ GV chuyển giao nhiệm vụ học tập: Nhắc lại tính chất cơ bản của phân số bằng công thức tổng quát (m ≠ 0) , (n ÎƯC(a,b))
+ Sau đó yêu cầu HS so sánh với phân thức Và đặt câu hỏi tính chất của phân thức có giống với tính chất của phân số hay không ? Nếu có thì phát biểu thế nào ta sẽ cùng đi tìm hiểu qua bài học hôm nay.
- Tổ chức các hoạt động dạy học phát huy tính tích cực của học sinh:
+ Dạy học giải quyết vấn đề:
Dạy học giải quyết vấn đề là cách thức tổ chức dạy học, trong đó học sinh được đặt trong một tình huống có vấn đề mà bản thân học sinh chưa biết cách thức, phương tiện cần phải nỗ lực tư duy để giải quyết vấn đề.
Cách thức tiến hành theo các bước cụ thể như sau:
Bước 1: Nhận biết vấn đề
GV đưa học sinh vào tình huống có vấn đề hoặc GV có thể gợi ý Học sinh tự tạo ra tình huống có vấn đề. Phát biểu vấn đề dưới dạng “mâu thuẫn nhận thức”, đó là mâu thuẫn giữa những cái đã biết với những cái chưa biết và học sinh muốn tìm tòi để giải quyết vấn đề mâu thuẫn đó.
Bước 2: Lập kế hoạch giải quyết vấn đề
Học sinh đề xuất giả thuyết giải quyết vấn đề, đưa ra các phương án và lập kế hoạch để giải quyết vấn đề theo giả thuyết đã đặt ra.
Bước 3: Thực hiện kế hoạch
Thực hiện kế hoạch giải quyết vấn đề. Đánh giá việc thực hiện giả thuyết đặt ra đã đúng chưa, nếu đúng thì chuyển sang bước tiếp theo, nếu như chưa đúng thì quay trở lại bước 2 để chọn giả thuyết khác.
Bước 4: Kiểm tra, đánh giá và kết luận
GV tổ chức cho học sinh rút ra kết luận về cách giải quyết vấn đề trong tình huống đã được đặt ra, từ đó học sinh lĩnh hội được tri thức, kĩ năng của bài học hoặc vận dụng được những kiến thức, kĩ năng trong môn học để giải quyết vấn đề trong thực tiễn.
 Ví dụ 1: Tạo tình huống có vấn đề: Trong hoạt động khởi động của bài “ Phép nhân đa thức với đa thức”
GV chiếu slide và đặt vấn đề như sau:Bạn Linh có 2 cái áo và 2 cái quần (váy) như hình dưới. Bạn ấy đã chọn được một bộ. Em hãy giúp bạn ấy chọn thêm các bộ khác nhé!
HS suy nghĩ đề xuất phương án phối áo với quần (váy) để chọn thêm các bộ khác.
GV gọi 1 HS trả lời: các cách chọn bộ quần áo khác.( Áo vàng-Váy kẻ; Áo vàng-quần trắng; Áo đen-Quần trắng).
GV nhận xét, đánh giá các câu trả lời của HS.
GV liên hệ từ vấn đề cách phối quần áo đến phép nhân 2 đa thức bằng cách thay 2 áo bới đa thưc (A+B) thay 2 cái quần (váy) bởi đa thức (C+D) sau đó yêu cầu HS dự đoán kết quả phép tính (A+B).(C+D).
+ Tổ chức dạy học khám phá:
Dạy học khám phá là cách thức tổ chức dạy học, trong đó HS tự tìm tòi, khám phá phát hiện ra tri thức mới thông qua các hoạt động dưới định hướng của GV.
Bước 1. Giao nhiệm vụ học tập
GV cần đảm bảo học sinh xác định rõ vấn đề cần khám phá, mục đích của việc khám phá đó cũng như cách thức hoạt động trong quá trình khám phá.
Bước 2. Thực hiện nhiệm vụ học tập khám phá
Học sinh làm việc cá nhân hoặc làm việc nhóm đề xuất các giả thuyết về vấn đề được đặt ra. Sau đó học sinh tiến hành thu thập các dữ liệu, thông tin thông qua các hoạt động thí nghiệm, khảo sát và xử lí các dữ liệu để kiểm chứng giả thuyết đã đặt ra. học sinh có thể làm việc với các phiếu học tập, các mô hình, hình ảnh, biểu đồ Sau đó học sinh trao đổi, thảo luận về tính đúng đắn của các các giả thuyết được đưa ra.
Bước 3. Trình bày và đánh giá kết quả của hoạt động
GV tổ chức cho học sinh trình bày kết quả của hoạt động khám phá. Từ đó, GV hướng dẫn học sinh lựa chọn những phán đoán, kết luận đúng để hình thành kiến thức mới.
Ví dụ: Trong bài trải nghiệm sáng tạo: TRỤC ĐỐI XỨNG
Sau khi giới thiệu về trục đối xứng từ việc gập đôi các hình đã cắt sao cho hai nửa chồng khít lên nhau để xác định trục đối xứng. GV tổ chức cho HS hoạt động tìm các ví dụ về đối xứng trục trong môi trường, lớp học, sân trường.
Bước 1: GV chia nhóm để HS tìm tòi, quan sát, thu thập hình ảnh của các đồ vật trong không gian lớp học, sân trường,... 
Kết quả thu được là các mẫu vật hoặc các hình ảnh lưu trên máy ảnh (điện thoại)
Bước 2: Dựa trên các sản phẩm thu thập được, các thành viên trong nhóm thực hiện việc tìm ra các đồ vật mà hình ảnh của nó có tính chất đối xứng và tìm số trục đối xứng
Kiểm chứng lại bằng cách đo các kích thước trong thực tế bằng thước dây hoặc các dụng cụ khác
Bước 3: Trình bày kết quả thu được, tổng kết và phân loại theo số trục đối xứng, kèm theo hình ảnh vào một tờ giấy A0.
Tên đồ vật
1 trục đối xứng
2trục đối xứng
3trục đối xứng
4trục đối xứng
Nhiều hơn 4 trục đối xứng
GV gọi lần lượt từng nhóm lên trình bày, các nhóm khác quan sát, theo dõi và nhận xét.
+ Tăng cường giáo dục tích hợp liên môn (STEM):
Là mô hình giáo dục dựa trên cách tiếp cận liên môn, giúp học sinh áp dụng các kiến thức khoa học, công nghệ, kĩ thuật và toán học vào giải quyết một số vấn đề thực tiễn trong bối cảnh cụ thể, liên hệ với các kiến thức cuộc sống, kiến thức xã hội.
Sự gần gũi của kiến thức lí thuyết với thực tế giúp học sinh dễ dàng kiểm chứng, liên hệ và trở thành một trong những yếu tố thúc đẩy tính tích cực của học sinh.
Trong quá trình dạy học, ngay từ khâu soạn bài, giáo viên phải luôn đặt cho mình câu hỏi: Mỗi nội dung kiến thức có trong bài được gắn với những vấn đề nào trong cuộc sống? Làm thế nào để học sinh nhận thấy sự liên quan đó? Với bài dạy cụ thể trên lớp, giáo viên tìm cách để cho học sinh kết nối kiến thức vừa tìm hiểu với chính thực tiễn cuộc sống, nhờ đó một lần nữa khắc sâu kiến thức của bài học và nhận thức được tầm quan trọng của việc học Toán.
Ví dụ 1: Giáo viên có thể đặt vấn đề vào bài “Trục đối xứng” bằng cách tích hợp với môn Mỹ thuật như sau:
Trong môn mỹ thuật người ta thường gấp giấy để cắt một số chữ cái: 
H, B, M , A, K
Những chữ nào có trong các chữ trên có thể gấp giấy cắt được, chúng ta cùng đi tìm hiểu trong bài học hôm nay!
+ Kĩ thuật khăn trải bàn:
Kĩ thuật khăn trải bàn là cách thức tổ chức hoạt động học tập mang tính hợp tác, kết hợp giữa hoạt động cá nhân và nhóm. Học sinh sử dụng giấy khổ lớn để ghi nhận ý kiến cá nhân và ý kiến thống nhất chung của nhóm vào các phần được bố trí như khăn trải bàn.
Học sinh được chia thành các nhóm nhỏ từ 4 đến 6 người. Mỗi nhóm sẽ có một tờ giấy khổ lớn.
Học sinh chia tờ giấy thành các phần, bao gồm một phần trung tâm và các phần xung quanh có số lượng bằng với số thành viên trong nhóm.
Mỗi thành viên ngồi vào vị trí tương ứng với phần xung quanh.
Mỗi thành viên làm việc độc lập, suy nghĩ và viết các ý tưởng về nhiệm vụ được giao vào ô của mình trong thời gian quy định.
Kết thúc thời gian làm việc cá nhân, các thành viên chia sẻ, thảo luận và thống nhất câu trả lời. Đại diện nhóm ghi các ý tưởng được thống nhất vào phần trung tâm của “khăn trải bàn”.
Ví dụ: GV tổ chức cho lớp chơi một trò chơi “tìm một đức tính quý báu của con người”.
Hãy viết mỗi biểu thức sau dưới dạng bình phương hoặc lập phương một tổng hoặc một hiệu, rồi điền chữ số cùng dòng biểu thức đó vào bảng cho thích hợp, sau khi thêm dấu, em sẽ tìm ra một đức tính quý báu của con người.
x3 - 3x2 + 3x – 1 ( N ); 16 + 8x + x2 (U) ; 
 3x2 + 3x + 1 + x3 ( H) ; 1 - 2y + y2 ( Â)
(x - 1)3
(x + 1)3
(y - 1)2
(x - 1)3
(1+ x )3
(1 - y)2
(x + 4)2
GV chia nhóm (mỗi nhóm 4 học sinh), phát cho mỗi nhóm 1 tờ giấy A3.
Mỗi nhóm chia tờ giấy A3 thành 4 ô xung quanh (ghi tên HS đính kèm) và một ô lớn ở giữa.
x3 - 3x2 + 3x – 1
3x2 + 3x + 1 + x3 
16 + 8x + x2 
(x - 1)3
(x + 1)3
(y - 1)2
(x - 1)3
(1+ x )3
(1 - y)2
(x + 4)2
1 - 2y + y2
+ GV yêu cầu mỗi HS trong nhóm sẽ thực hiện một ý bài tập và viết kết 
Mỗi học sinh ghi kết quả làm việc vào ô cá nhân của mình.
Sau khi làm việc cá nhân sau đó nhóm sẽ thảo luận tổng hợp kết quả và điền các chữ cái tương ứng vào ô chữ lớn ở giữa tờ A3.
GV đánh giá và cho điểm nhóm nào thực hiện nhanh và chính xác nhất
+ Dạy học có phân hóa:
Dạy học, giáo dục phân hóa là quá trình dạy học nhằm đảm bảo cho mỗi cá nhân người phát triển tối đa năng lực, sở trường, phù hợp với các yếu tố cá nhân, trong đó Học sinh được tạo điều kiện để lựa chọn nội dung, độ khó, hình thức, nhịp độ học tập phù hợp với bản thân. Cơ sở của dạy học phân hóa là sự công nhận những khác biệt giữa các cá nhân học sinh như phong cách học tập, các loại hình trí thông minh, nhu cầu và điều kiện học tập Dạy học phân hóa sẽ giúp Học sinh phát triển tối đa năng lực của từng học sinh, đặc biệt là năng lực đặc thù.
Trong tiết lý thuyết: Chỉ yêu cầu đối với học sinh yếu yêu cầu đơn giản như đọc định nghĩa, định ý,nêu ví dụ (đối với ví dụ đơn giản) Học sinh khá giỏi yêu cầu chứng minh, tìm phản ví dụ, có thể nêu các câu hỏi gợi mở để các em tự tìm tòi khám phá. Mỗi dạng bài giáo viên cần cho từ 2 đến 3 ví dụ để các học sinh yếu kém làm cho quen dạng. Từ ví dụ thứ hai cần cho thêm các yêu cầu khó hơn để dành cho học sinh khá giỏi.
Chẳng hạn khi dạy bài “phương trình đưa được về dạng ax + b = 0” tôi đã đưa ra các bài tập nâng cao dần như sau:
 Giải các phương trình sau:
a, 	 b, 
c, 	 d, 
e, f, 
 Các bài tập a,b,c dành cho học sinh trung bình,yếu. Các bài tập d,e dành cho học sinh khá giỏi. Trong tiết luyện tập gọi học sinh yếu kém nêu công thức, nhắc lại kiến thức, chữa bài tập dễ. Yêu cầu học sinh khá giỏi chữa bài tập khó hơn giao thêm bài tập khó cho học sinh khá giỏi.
Ngoài ra GV cần tích cực sử dụng thiết bị dạy học ứng dụng công nghệ thông tin hợp lý trong các tiết dạy. Khi được hỗ trợ bởi công nghệ thông tin thì khả năng truyền tải ý tưởng của giáo viên cũng dễ dàng và phong phú hơn.
Xây dựng giờ học thân thiện học sinh tích cực, giáo viên có kiến thức vững vàng, có tài năng sư phạm, có tác phong cử chỉ ngôn ngữ thân thiện quan tâm giúp đỡ học sinh trong giờ học.
- Xây dựng đội ngũ cán sự bộ môn
 Mỗi giáo viên cần xây dựng một đội ngũ cán sự bộ môn gồm từ 4 đến 6 em/lớp, đó là các HS khá nhất bộ môn ở lớp đó. Thông qua cán sự bộ môn giáo viên có thể nắm được tình hình học tập của HS để có phương pháp phù hợp.
 Cán sự bộ môn có nhiệm vụ kiểm tra việc làm bài tập ở nhà, giúp đỡ giải đáp những thắc mắc môn Toán cho các bạn trong lớp khi tự học ở nhà hoặc trong lúc kiểm tra bài cũ.
 Những câu hỏi mà ban cán sự bộ môn không giải đáp được cần được tập hợp và giáo viên phải trực tiếp giảng.
 Giáo viên cần đề nghị với giáo viên chủ nhiệm để đổi chỗ ngồi hợp lý sao cho cán sự bộ môn không ngồi tập trung, HS học quá yếu cần đề nghị chuyển chỗ ngồi phù hợp nhằm xây dựng và thực hiện kế hoạch “ Đôi bạn cùng tiến”.
* Điều kiện thực hiện:
Do số lượng học sinh trong lớp đông, trình độ lại không đồng đều nên sẽ mất nhiều thời gian để thực hiện các hoạt động vì thế để bài dạy không mất quá nhiều thời gian bắt buộc giáo viên phải giao nhiệm vụ học tập về nhà trước cho học sinh, đồng thời học sinh về nhà phải tự giác tìm hiểu và có sản phẩm chuẩn bị cho các tiết học.
Bên cạnh đó, giáo viên nên bố trí bàn ghế trong lớp học phù hợp để tạo không gian cho các nhóm hoạt động nhằm giúp các em có sự cạnh tranh, ganh đua nhau trong tiết học giữa các nhóm.
Để tiết dạy thành công thì không thể thiếu các đồ dùng dạy học phù hợp (giấy khổ lớn, bút lông ) khi tổ chức hoạt động, do đó có thể mất một lượng kinh phí nhất định.
Vai trò của giáo viên như là một người nhạc trưởng trong một tiết dạy học, vậy nên giáo viên phải bao quát được nhiều cá nhân, nhiều nhóm và tập thể lớp, tránh trường hợp có những học sinh hoạt động nhóm không hiệu quả, trong khi một số khác lại làm quá nhiều việc. Thêm nữa, giáo viên phải có công cụ để ghi nhận kết quả làm việc của cá nhân và thảo luận nhóm.
* Hiệu quả của biện pháp: 
Để chất lượng dạy và học được nâng lên, đòi hỏi phải có sự nỗ lực của cả giáo viên và học sinh, trong đó vai trò của học sinh là quan trọng nhất. Các em phải là người chủ động chiếm lĩnh tri thức. Vì vậy, trước hết giáo viên phải khơi gợi được hứng thú học tập bộ môn cho các học sinh, từ đó các em sẽ năng động, sáng tạo và nhiệt tình hơn trong quá trình học. Dưới đây là bảng số liệu tôi thu thập được về mức độ hứng thú với môn Toán của HS năm học 2020-2021 sau khi được giáo viên thực hiện các biện pháp:
Tổng số HS
Rất hứng thú
Hứng thú
Bình thường
Không hứng thú
Số HS
%
Số HS
%
Số HS
%
Số HS
%
44
8
18,2%
15
34,1%
16
36,4%
5
11,3%
Như vậy, so với bảng số liệu thu thập được trước khi sử dụng biện pháp, tôi nhận thấy tỷ lệ học sinh có hứng thú học tập môn toán tăng lên, số học sinh có biểu hiện chán nản mệt mỏi trong học tập bộ môn giảm. 
Bên cạnh đó số học sinh thường xuyên chú ý nghe giảng hăng hái phát biểu ý kiến xây dựng bài và ghi chép bài đầy đủ tăng lên, số học sinh thường xuyên học bài cũ, làm bài tập về nhà, đọc bài trước ở nhà, chuẩn bị đồ dùng học tập đầy đủ cho bài học mới cũng tăng đáng kể.
IV. HIỆU QUẢ
Sau khi thực hiện và vận dụng “Biện pháp tạo hứng thú và tăng tính tích cực cho học sinh trong việc học tập bộ môn Toán lớp 8 ở trường THCS Pa Khóa - Sìn Hồ - Lai Châu” tôi nhận thấy học sinh đã có hứng thú và tích cực hơn trong việc học tập bộ môn, giờ giảng của mỗi giáo viên trở nên sinh động, hấp dẫn và có ý nghĩa. Học sinh thấy mình “được học” chứ không “bị học”. Học sinh được chia sẻ những kiến thức và kinh nghiệm của mình đồng thời với việc bổ sung những kiến thức, kinh nghiệm không chỉ từ người thầy mà còn từ chính các bạn trong lớp. Học sinh cảm thấy hào hứng khi được học, được sáng tạo, được thể hiện, được làm. Nhờ học theo hướng tích cực mà học sinh ghi nhớ sâu kiến thức và tăng khả năng áp dụng vào thực tế. Nhờ đó mà chất lượng dạy và học cũng tăng lên rất nhiều. Đồng thời chất lượng môn Toán 8 được nâng lên rõ rệt, được thể hiện trong các bảng sau:
Bảng đánh giá kết quả bộ môn Toán 8 năm học 2020-2021 
Thời gian 
Tổng số HS
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Số HS
%
Số HS
%
Số HS
%
Số HS
%
Trước khi thực hiện biện pháp
44
2
4,5%
7
15,9%
26
59,1%
9
20,5%
Sau khi thực hiện biện pháp
44
5
11,4%
11
25,0%
25
56,8%
3
6,8%
GIÁO VIÊN
Nguyễn Thị Sáu

Tài liệu đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_bien_phap_tao_hung_thu_va_tang_tinh_ti.docx